Bài viết này có sự tham vấn chuyên môn của Bác sĩ Khoa Nhi – Sơ sinh đến từ Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang.
Ngày nay, khi điều trị các hội chứng liên quan đến rối loạn tiêu hóa, bác sĩ thường chỉ định bổ sung men vi sinh hoặc men tiêu hóa, đôi khi cả hai loại. Vậy men vi sinh và men tiêu hóa có gì khác nhau và vai trò của chúng đối với hệ tiêu hóa ra sao?
Men vi sinh và men tiêu hóa là hai loại khác biệt hoàn toàn với nhau, cụ thể qua từng đặc tính sau:
1. Men vi sinh
1.1 Men vi sinh là gì?
Men vi sinh là chế phẩm chứa các vi sinh vật có lợi (lợi khuẩn). Khi đi vào đường tiêu hóa, men vi sinh giúp cải thiện cân bằng hệ vi khuẩn ruột và có ích cho sức khỏe người dùng. Men vi sinh còn được biết đến với tên gọi probiotic.
Trong ruột già luôn có mặt các loại vi khuẩn thường trú, trong đó bao gồm cả vi khuẩn gây bệnh và vi khuẩn có ích (lợi khuẩn). Lợi khuẩn hỗ trợ tiêu hóa thức ăn hiệu quả, giúp tạo hệ sinh thái cân bằng trong đường ruột và bảo vệ ruột già. Chúng giúp lên men thức ăn, sản xuất acid lactic, tạo môi trường acid trong ruột, ngăn cản sự phát triển quá mức của vi khuẩn có hại, giảm nguy cơ nhiễm khuẩn đường tiêu hóa, khắc phục loạn khuẩn ruột, và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ miễn dịch đường ruột.
1.2 Men vi sinh được chỉ định cho bệnh gì?
Men vi sinh được chỉ định sử dụng khi sự cân bằng hệ vi khuẩn trong ruột bị xáo trộn, dẫn đến loạn khuẩn, thường gặp ở bệnh nhân điều trị kháng sinh kéo dài. Triệu chứng loạn khuẩn ruột bao gồm đi ngoài phân sống, tiêu chảy, khó tiêu, trướng bụng…
Hiện nay, phần lớn men vi sinh có trên thị trường thuộc loại thực phẩm chức năng như: antibio, bioacimin, probio, lactomin. Tuy nhiên, một số sản phẩm chứa hàm lượng lợi khuẩn cao, do đó khi sử dụng phải tuân theo hướng dẫn của nhà sản xuất hoặc bác sĩ. Đối với men vi sinh chứa các chủng vi sinh vật không thường trú trong ruột (như dạng bào tử và nấm men), không nên sử dụng lâu dài.
1.3 Lưu ý khi dùng men vi sinh
- Không dùng men vi sinh trong tình trạng viêm tụy cấp, phẫu thuật ruột…
- Dùng men vi sinh sau khi uống kháng sinh khoảng 2 tiếng để tránh việc vi khuẩn có lợi bị kháng sinh tiêu diệt.
- Không pha men vi sinh với nước sôi.
- Uống ngay sau khi pha, không để quá lâu khiến vi sinh vật chết và mất tác dụng.
Trắc nghiệm: Bạn có nhận biết sớm dấu hiệu chậm phát triển thể chất và trí tuệ ở trẻ?
Nếu trẻ 6 tuổi chưa biết đếm, 7 tuổi vẫn chưa phân biệt được thực tế và tưởng tượng, có thể dấu hiệu chậm phát triển thể chất và trí tuệ. Bạn có nhận biết được những dấu hiệu này không? Hãy thử bài trắc nghiệm nhanh sau để bổ sung thêm kiến thức nhé!
Nội dung trắc nghiệm được tham vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ y khoa Ma Văn Thấm, chuyên khoa Nhi, Khoa Nhi – Sơ sinh – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc

2. Men tiêu hóa
2.1 Men tiêu hóa là gì?
Men vi sinh khác gì men tiêu hóa? Cần hiểu rằng, men vi sinh bao gồm vi khuẩn có lợi, trong khi men tiêu hóa (enzyme hay Digestive enzymes) lại là sản phẩm được tiết ra bởi các tuyến trong cơ thể, giúp phân giải và hấp thụ thức ăn (tách thức ăn thành phần tử nhỏ để dễ dàng hấp thu vào máu).
Ví dụ: tuyến nước bọt tiết ra men alpha – amylase để phân giải tinh bột nấu chín thành đường maltose, dạ dày giải phóng acid chlorhydrid (HCl) và các men pepsin, lipase (trong đó, pepsin phân giải 10 – 20% chất đạm từ thức ăn, còn lipase yếu, tiêu hóa chất béo đã nhũ tương hóa như chất béo của sữa, trứng).
Men tiêu hóa từ tụy bao gồm các men tiêu hoá tinh bột, đạm, chất béo đầy đủ. Men tiêu hoá tinh bột của tụy cũng là alpha – amylase, tương tự như men của nước bọt nhưng tác dụng mạnh hơn nhiều lần, tiêu hóa được cả tinh bột chín và sống. Men tiêu hoá đạm từ tụy gồm: trypsin, chymotrypsin… Các men lipase của tụy hỗ trợ tiêu hóa mỡ (sau khi mỡ được nhũ tương hóa nhờ muối mật).
Các tế bào biểu mô của niêm mạc ruột non cũng tiết ra một số men tiêu hóa giúp phân giải chất dinh dưỡng (chất bột, đạm, chất béo) ở giai đoạn cuối, từ đó chuyển hóa thành những phân tử đơn giản để hấp thu qua thành ruột vào máu.
2.2 Khi nào cần dùng men tiêu hóa?
Men tiêu hóa được chỉ định bởi bác sĩ cho những bệnh nhân thiếu men tiêu hóa như: người bị ngộ độc thực phẩm, người thường xuyên căng thẳng, người dùng bia rượu lâu dài, và bệnh nhân dùng thuốc (đặc biệt là kháng sinh)… khi việc tiết men hạn chế, thức ăn không tiêu hóa tốt gây đầy bụng, khó tiêu, và tiêu chảy…
Đối với những người mới ốm dậy có thể lực yếu, dùng men tiêu hóa giúp tiêu hóa bình thường và cơ thể hồi phục nhanh chóng. Với tình trạng bệnh nhân hay rối loạn tiêu hóa, bụng khó chịu, ăn chậm tiêu, việc bổ sung một ít men tiêu hóa là có lợi.
Lưu ý khi sử dụng men tiêu hóa
Sử dụng quá nhiều và kéo dài men tiêu hóa có thể gây tác dụng ngược do việc cung cấp lượng men từ bên ngoài quá nhiều sẽ ức chế tuyến nội tiết của cơ thể, dẫn đến giảm tiết men tiêu hóa nội sinh.
Hiện nay, trên thị trường có các loại men tiêu hóa như: pepsin, trypsin, pancreatin… hoặc có cả alpha amylase và papain. Tuy nhiên, cần lưu ý không nên sử dụng men tiêu hóa cùng với thuốc kháng acid (thuốc điều trị viêm – loét dạ dày, thực quản, tá tràng chung chung) vì sẽ làm mất tác dụng của men.

3. Có nên dùng chung men vi sinh và men tiêu hóa?
Thực tế, men vi sinh và men tiêu hóa đều có hỗ trợ đáng kể trong điều trị các bệnh tiêu hóa. Bác sĩ có thể chỉ định sử dụng đồng thời cả hai loại men này nếu người bệnh thiếu hụt cả hai. Tuy nhiên, sử dụng không đúng cách hoặc lạm dụng bất kỳ loại men nào cũng tiềm ẩn nguy hiểm cho sức khỏe. Tốt nhất, bệnh nhân nên sử dụng khi cần thiết hoặc theo hướng dẫn của nhân viên y tế.
.
.
Thực phẩm bảo vệ sức khỏe MENPEPTINE ENZYME
- Hỗ trợ bổ sung enzyme tiêu hóa
- Hỗ trợ tăng cường tiêu hóa
>> Xem chi tiết sản phẩm tạimenpeptine.com
Thành phần
Papain (chiết xuất từ đu đủ), Alpha Amylase, Bromelain (Chiết xuất từ dứa), Simethicone
Đối tượng sử dụng
Dành cho người tiêu hóa kém, đầy hơi, chướng bụng
Công dụng
- Bổ sung enzym tiêu hóa cho cơ thể
- Hỗ trợ tăng cường tiêu hóa
- Hỗ trợ cải thiện các triệu chứng đầy bụng, khó tiêu do tiêu hóa kém
Sản xuất và chịu trách nhiệm về sản phẩm: Công ty TNHH Mediphar USA
Điện thoại: 0903893866
Website:medipharusa.com
(XNQC số 1647/2021/XNQC-ATTP)